2024-12-11
Viêm quanh khớp vai phổ biến hơn ở phụ nữ trung niên và người cao tuổi. Nó có đặc điểm là bệnh phức tạp và các cơn tái phát, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động vai hàng ngày của người bệnh.Máy trị liệu bằng sóng xung kích là một công nghệ mới trong y học phục hồi chức năng. Nó có ưu điểm là không xâm lấn, hiệu quả và an toàn. Nó được sử dụng phổ biến hơn trong các bệnh như viêm quanh khớp vai, đau gót chân và loãng xương. Một bệnh viện trong nước đã chọn 30 bệnh nhân viêm quanh khớp vai làm đối tượng nghiên cứu xem liệu sóng xung kích có thực sự có tác dụng giảm đau hiệu quả hay không.
Nhóm đối chứng sử dụng phương pháp điều trị thông thường, châm cứu điểm đau và điều trị giác hơi cầm máu. Vị trí điều trị là điểm đau khi bệnh nhân gập và duỗi vai, kéo và ấn. Việc điều trị là 4 lần một tuần và 1 đợt điều trị là 4 tuần.
Nhóm quan sát được điều trị bằng sóng xung kích ngoại cơ thể trên cơ sở điều trị thông thường. Việc điều trị thông thường giống như của nhóm đối chứng. Phần cơ thể đau đớn nhất của bệnh nhân được điều trị bằngMáy vật lý trị liệu bằng sóng xung kích. Tần số của thiết bị được đặt ở mức 8-10 Hz, mỗi lần 5-10 phút và số lượng sóng xung kích là 2000 lần. Việc điều trị là hai lần một tuần, và 2 tuần là một đợt điều trị.
(1) Điểm vai Constant-Murley được sử dụng để đánh giá khả năng phục hồi khớp vai của bệnh nhân, bao gồm đau, hoạt động hàng ngày, phạm vi chuyển động của khớp và sức mạnh cơ bắp. Số điểm là 100 điểm. Điểm càng cao thì khả năng phục hồi khớp vai của bệnh nhân càng tốt.
(2) Hệ thống đánh giá mức độ đau bằng số (NRS) được sử dụng để đánh giá trải nghiệm đau chủ quan của bệnh nhân. 0 điểm là không đau và 10 điểm là đau nhiều.
(1) So sánh điểm Constant-Murley giữa 2 nhóm trước và sau điều trị
Nhóm | Số người | Trước khi điều trị | 2 tuần sau điều trị | 6 tuần sau điều trị | 12 tuần sau điều trị |
Nhóm kiểm soát | 15 | 41,06±2,74 | 50,38±3,42 | 57,31±3,16 | 65,12±6,45 |
Nhóm quan sát | 15 | 40,36±2,69 | 56,23±3,08 | 63,08±4,92 | 75,25±6,42 |
Như có thể thấy từ bảng trên, điểm Constant-Murley của nhóm quan sát ở thời điểm 2 tuần, 6 tuần và 12 tuần sau khi điều trị cao hơn so với nhóm đối chứng.
(2)So sánh điểm NRS giữa 2 nhóm bệnh nhân trước và sau điều trị
Nhóm | Số người | Trước khi điều trị | 2 tuần sau điều trị | 6 tuần sau điều trị | 12 tuần sau điều trị |
Nhóm kiểm soát | 15 | 8,47±0,62 | 7,66±0,15 | 5,26±0,42 | 2,46±0,15 |
Nhóm quan sát | 15 | 8,26±0,32 | 6,35±0,42 | 4,25±0,38 | 1,69±0,42 |
Như có thể thấy từ bảng trên, điểm NRS của nhóm quan sát vào lúc 2 tuần, 6 tuần và 12 tuần sau khi điều trị thấp hơn so với nhóm đối chứng.
Kết quả trên cho thấy liệu pháp sóng xung kích ngoại bào cho vai bị đông cứng có thể làm giảm cơn đau vai của bệnh nhân và thúc đẩy quá trình phục hồi các rối loạn vận động khớp vai của bệnh nhân càng sớm càng tốt. Những lý do chính là: 1. Theo thống kê, tỷ lệ thành công của sóng xung kích ngoại cơ thể trong việc giảm đau vai đông lạnh một cách hiệu quả là 30% -85%, chủ yếu bằng cách sử dụng các đặc tính áp suất cao, chu kỳ ngắn và tần số cao của sóng âm để đạt được hiệu quả mục đích điều trị. Thông qua liệu pháp sóng âm, nó có thể tác động đến các điểm đau cục bộ của xương, khớp và các mô xung quanh, từ đó làm rung động các phân tử mô để cải thiện khả năng chịu đau. 2. Đầu dò sóng xung kích có hiệu ứng tần số cao và sóng xung kích sóng âm của nó có thể tạo ra ứng suất kéo hoặc ứng suất nén khác nhau thông qua các môi trường mô khác nhau. Nó không xâm lấn để xâm nhập vào các mô mềm, và nó có thể làm giảm sự co bóp liên tục của cơ, do đó gây ra sự lỏng lẻo giữa các mô.
Tóm lại, đối với những bệnh nhân bị đau vai lạnh,máy trị liệu bằng sóng xung kíchcó thể giúp giảm đau vai và thúc đẩy sự phục hồi hạn chế của chức năng khớp vai, và hiệu quả lâm sàng của nó rõ ràng hơn.